Đá quý – Sự hình thành và phân loại
Ngọc hay đá quý là các chất rắn có giá trị thẩm mỹ, có độ cứng và chống ăn mòn, thường được dùng để trang trí, làm đồ trang sức hoặc công việc tương tự.
Một
số loại ngọc có một số tính chất đặc biệt như khả năng tương tác với ánh sáng
và độ cứng khả năng chống ăn mòn. Chúng có thể được ứng dụng trong khoa học kỹ thuật. Ví dụ Hồng ngọc (Ruby) hay Lam ngọc (Sa-phire) được dùng trong kỹ thuật laser, tạo ra laser hồng ngọc hoặc laser xa-phia. Nhờ độ cứng cơ học và ít phản ứng hóa học với một số hóa chất, chúng cũng được ứng dụng để chế tạo một số máy móc
chuyên dụng trong công nghệ địa chất.
Tuy
nhiên, ứng dụng quan trọng nhất của Ngọc là làm vật trang trí,
tạo ra đồ trang sức đắt tiền; nhờ vào giá trị thẩm mỹ của chúng
Từ
lâu con người đã biết đến đá quý và giữ gìn nó không chỉ bởi vẻ đẹp rực rỡ, quyến
rũ mê hồn, mà còn do giá trị đặc biệt của nó. Tại Việt Nam, nghề khai thác đá quí và sản
xuất các đồ trang sức bằng chất liệu đá quí đã xuất hiện hàng ngàn năm và có bề
dày lịch sử so với các đồ trang sức làm bằng chất liệu khác. Những dấu ấn đó để
lại ở các di chỉ khảo cổ Tràng Kênh (Hải Phòng), Sơn Vi (Hoà Bình), Dak Nông
(Đắc lắc), riêng Óc Eo (An Giang) đã đạt đến trình độ phân thạch khá cao.
Những người thợ chế tác dùng kỹ thuật mài, cưa,
giũa, chạm, khoan để tạo nên những thứ đồ trang sức độc đáo, lạ mắt như: chuỗi
bông tai, nhẫn, vòng đeo cổ, đeo tay...từ các loại đá quí: Bạch mã não (agate), Hồng mã
não (comaline), Hồng bảo thạch
(rubis), Lam bảo thạch (saphia), Ngọc hồng lựu (grenat), Ngọc tím (amothyste), Thạch anh.
Xưa kia, đá quý chủ yếu phục vụ cho nhu cầu trang
sức hoặc làm đẹp của các bậc quyền quí, vương giả chứ người dân không bao giờ
có được. Ngọc là một chiếm lợi phẩm hoặc cống phẩm trong các cuộc chinh phạt,
bang giao của các triều đình phong kiến trước đây. Trong số các loại đá quí thì
Ruby (Hồng ngọc) chiếm ngôi Hoàng Hậu. Ngoại trừ kim cương ra thì chưa có loại
đá quí nào cứng hơn Ruby (độ cứng Rubi là 9; độ cứng kim cương là 10), thành
phần Rubi gồm 52,2% chì nhôm, 46,8% ôxy.
Đứng về giá trị kinh tế Saphia gấp 5-10 lần các
loại đá qúi khác, còn Ruby thì gấp 2-10 lần Saphia. Ở Việt Nam có những viên Ruby được bán với
giá 526.000 USD - 1.500.000 USD. Loại Ruby nhỏ được bán theo mớ giá trung bình
32.000 USD - 36.000 USD/kg. Ruby và Saphia là khoáng vật đá quí được xếp vào
loại đầu bảng của thế giới.
Các mỏ Ruby, Saphia của Ấn Độ, Việt Nam, Mianma
là những mỏ nổi tiếng trên thế giới nằm trong vùng sinh khoáng đá quí Nam Á và
Đông Nam Á. Các nhà điạ chất học đã khẳng định nguồn đá quí ở Việt Nam rất
phong phú và đa dạng về chủng loại. Nước ta có 3 trung tâm lớn về đá quí: Lục
Yên (Yên Bái), Quì Châu - Quì Hợp (Nghệ An). Đak Nông (Đắc Lắc). Ở Lục Yên có
khoảng 50 khu vực có thể khai thác, nhưng số khu vực đi vào hoạt động chưa
nhiều. Thị trường Việt Nam
cho ra những viên Rubi đẹp phần lớn đều có màu đỏ sẫm (ở Lục Yên), đỏ hồng (Quì
Châu, Quì Hợp). Mỏ Quì Châu - Quì Hợp tồn tại dưới hai loại hình: Rubi - Saphia
ngoại sinh và nguyên sinh.
Thị trường đá quí của Việt Nam ngày càng khởi sắc và phát
triển sôi động. Đồ trang sức có gắn đá quí nhất là Ruby được nhiều chuyên gia
nước ngoài đánh giá là loại hàng mỹ nghệ tinh xảo, có chất lượng tốt, đẹp. Đồ
trang sức gắn đá quí đang trở thành nhu cầu sử dụng một bộ phận dân cư khi đời
sống kinh tế ngày càng đi lên.
Đáp ứng thị hiếu này, nhiều cơ sở, công ty vàng
bạc đá quí đã mua sắm một số trang thiết bị hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc tế để
chế tác các mẫu mã hợp thời trang và sở thích người tiêu dùng. Điều này cũng
chứng tỏ bước tiến bộ trong việc hội nhập thị trường của những doanh nghiệp
vàng bạc đá quí ở Việt Nam.
(Công ty VBĐQ Kim Tín sưu tầm)